image banner
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Di tích – Danh thắng


1. Di tích lịch sử Khu vực "Ngã ba mũi tàu": địa điểm tập trung cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) của nhân dân huyện Cần Giuộc (ở xã Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An).

Di tích có tên gọi Ngã ba mũi tàu vì nơi đây là giao điểm giữa liên tỉnh lộ 50 và hương lộ 15 tạo thành một ngã ba. Sau giải phóng 1975 do yêu cầu phát triển kinh tế của địa phương, khu vực ngã ba được mở rộng thêm 2 con lộ mới cắt tại giao điểm một hướng về Trị Yên (Tân Kim), một hướng về ấp Phước Hòa (Tường Bình) tạo thành một ngã năm. Nhưng tên gọi Ngã ba mũi tàu ngày nay nhân dân vẫn gọi như cũ.

Cuộc biểu tình ngày 22 tháng 7 năm 1961 (năm Tân Sửu) tức ngày 1/9/1961 ở Cần Giuộc là cuộc đấu tranh chính trị lớn nhất huyện. Lần đầu tiên 20.000 nhân dân đã biểu dương sức mạnh của mình, trong 2 ngày đêm trên toàn huyện gây cho địch hoang mang dao động cuối cùng phải nhượng bộ, tên quận trưởng phải đích thân xin lỗi đồng bào và hứa chấp nhận các yêu sách là "chấm dứt việc bắn phá, dồn dân lập ấp, dỡ nhà, bắt gà, vịt để nhân dân tự do yên ổn làm ăn".

Thắng lợi của cuộc biểu tình đã chứng minh được sự chỉ đạo đúng đắn, tinh thần sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà tiêu biểu là Đảng bộ Cần Giuộc trong việc tập hợp mọi lực lượng cách mạng kết hợp linh hoạt giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang phá vỡ âm mưu "dồn dân lập ấp" của Mỹ - Diệm.

2. Di tích lịch sử khu vực Sân banh Cần Giuộc (Công viên Nguyễn Thị Bảy) 

 Nơi đây ghi lại sự kiện ngày 26/5/1941 thực dân pháp xử bắn đồng chí Nguyễn Thị Bảy và các chiến sĩ yêu nước khác trong cuộc khởi nghĩa ở Nam kỳ Cần Giuộc, các đồng chí bị xử tử gồm: chính giữa là đồng chí Nguyễn Thị Bảy, bên phải là 2 đồng chí Đang và Châu, bên trái là 2 đồng chí Trần Chí và Mười Thiện.

Phút sắp lìa đời chị cùng các chiến sĩ hô vang khẩu hiệu:

"Đả đảo đế quốc Pháp

Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm

Việt Nam độc lập muôn năm!"

3. Di tích lịch sử "Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình" ở Khu phố Kim Định, thị Trấn Cần Giuộc (ấp Trị Yên, xã Tân Kim) huyện Cần Giuộc là quê hương và cũng là đại điểm tưởng nhớ một tri thức trẻ, một nhân vật tích cực trong phong trào chống Mỹ - Ngụy của người Việt ngay trên đất Mỹ, một biểu tượng về lòng yêu nước của sinh viên Việt Nam trong mắt người yêu chuộng hòa bình những năm đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam.

Nguyễn Thái Bình là con trai lớn trong một gia đình tư chức nghèo đông con. Cha là Nguyễn Văn Hai, mẹ là Lê Thị Anh. Anh ra đời tại nhà bảo sanh Cần Giuộc – xã Trường Bình (nay thuộc thị trấn Cần Giuộc – tỉnh Long An) vào đêm 14/1/1948. Tiếng khóc chào đời của Nguyễn Thái Bình đã hòa lẫn vào tiếng súng nổ vang rền của một trận chiến đấu giữa lực lượng kháng chiến và quân Pháp ngay cạnh nhà bảo sanh Cần Giuộc vào đêm ấy. Chiến tranh và sự nghèo khổ mà gia đình và bản thân anh đã trải qua cũng như chứng kiến … đã hướng anh có suy nghĩ về quê hương đồng bào sau này khi đã lớn khôn.

Di tích "Khu lưu niệm Nguyễn Thái Bình" là một di tích có giá trị lớn về mặt lịch sử: Là quê hương và cũng là địa điểm để tưởng nhớ một tri thức trẻ Việt Nam dám đấu tranh chống Mỹ ngay trong lòng nước Mỹ những năm bọn đế quốc hung tàn này gây chiến tranh ở Việt Nam. Anh là biểu tượng đẹp về người thanh niên yêu nước biết sống ngẩng cao đầu và chết trong sự tiếc thương của cả dân tộc. Nguyễn Thái Bình đã sống xứng đáng với lương tâm và danh dự của tuổi thanh niên. Với cuộc đời ngắn ngủi của mình, anh đã để lại một tấm gương sáng về tinh thần yêu nước và khí phách anh hùng cho tuổi trẻ Việt Nam.

4. Di tích lịch sử Đình Chánh Tân Kim ở ấp Tân Xuân, xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc là một di tích lịch sử gắn liền với việc đi khai hoang mở đất lập làng của ông Tiền hiền họ Mai (Mai Văn Giã) từ miền Trung vào tận miền đồng bằng sông Cửu Long này. Công lao to lớn ấy được dân làng ghi nhớ và theo truyền thống, ông được thờ trong chánh Điện của đình với bài vị "Tiền hiền khai khẩn", hàng năm được dân làng tổ chức cúng vào dịp lễ Kỳ Yên.

Có thể gọi đình Chánh Tân Kim là một ngôi cổ đình vì nó đã tồn tại tính đến nay là 136 năm kể từ năm xây dựng 1860. Tuy đã có trùng tu ở Võ ca và Chánh điện nhưng vẫn còn giữ được yếu tố kín ở ngôi hậu sở. Và những hiện vật bài trí ở trong đình như câu đối, hoành phi, khánh thờ, linh vị cũng có niên đại trên dưới 100 năm.

Đình là một trong những thành tố của thiết chế văn hóa làng xã truyền thống. Tuy đối tượng thờ phụng trong đình có nhiều thành phần khá phức tạp nhưng đối tượng quan trọng vẫn là Thành Hoàng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nơi đây đã trở thành mái nhà chung chở che bảo vệ cho cán bộ đi về trú ẩn, hoạt động bí mật, là điểm hội họp và trao đổi những thông tin mật hiệu liên tục với những vùng căn cứ lân cận.

5. Khu tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc:

Ngày 17-12-2011, công trình "Khu tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc" được khởi công xây dựng phần hạ tầng kỹ thuật tại thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc-nơi mà cách đây 150 năm, từ một trận đánh lịch sử, hình ảnh người nông dân lần đầu tiên đi vào văn học Việt Nam như người anh hùng qua áng văn bất hủ của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

1. Từ trận đánh lịch sử

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (17-2-1859), Đại đồn Chí Hòa (2-1861), rồi đánh lan ra xung quanh, phong trào vũ trang kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ ở khắp Gia Định, Định Tường dưới ngọn cờ của Bình Tây Đại nguyên soái dân phong Trương Định, trong đó có hoạt động của nghĩa quân do Bùi Quang Diệu chỉ huy phát triển rất mạnh ở vùng Phước Lộc (nay là Cần Đước, Cần Giuộc).

Sau trận "Hỏa hồng Nhựt Tảo" (10-12-1861) nhấn chìm tàu giặc tại Vàm Nhựt Tảo của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực, một khí thế tấn công vào đồn lũy của Pháp đã bùng lên ở khắp Tân An, Gò Công. Lúc này, Phó đô đốc Pháp Bornard (vừa thay thế đô đốc Charner) ra lệnh rút bớt lính ở các đồn để tập trung lực lượng đánh chiếm Biên Hòa nhằm chặn đường liên lạc giữa quân triều đình với quân ta ở miền Tây. Nắm được tình hình trên, đêm Rằm tháng 11 năm Tân Dậu, tức 16-12-1861, Bùi Quang Diệu (1877, còn gọi là Đốc binh Là hay Quản Là, người làng Mỹ Lệ, tổng Lộc Thành Trung, huyện Phước Lộc, nay là xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước) chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở chợ Trường Bình, Cần Giuộc. Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní. Giặc Pháp phải điều động tàu chiến nã đại bác từ sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn. Theo Paulus Huỳnh Tịnh Của, phía nghĩa quân hy sinh 15 người, nhưng theo báo cáo của Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang, là 27 người.

Cảm kích trước tinh thần quả cảm của những người "dân ấp dân lân", bằng ngòi bút và tâm hồn trung nghĩa, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (lúc bấy giờ "tị địa" về Cần Giuộc, ở chùa Tôn Thạnh bốc thuốc, dạy dọc và sáng tác thơ văn yêu nước) đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để Bùi Quang Diệu đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận này, theo yêu cầu của Tuần phủ Đỗ Quang. Và như chúng ta đã biết, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong khi tuân thủ chặt chẽ lề luật của một bài văn tế thông thường, đã vượt lên thành một tác phẩm văn học độc đáo, là bản anh hùng ca của người nông dân Nam Bộ, đã khích lệ cao độ tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân trong hoàn cảnh bị thực dân xâm lược lúc bấy giờ.

2. Trở thành hình tượng trong văn học

Trận tập kích đồn Tây Dương-Cần Giuộc của những người nghĩa sĩ nông dân không những để lại dấu son trong lịch sử như là một trong những trận đánh tiêu biểu nhất của nhân dân Long An trong buổi đầu đánh giặc để giữ gìn "ngọn rau tấc đất" của cha ông, mà còn đi vào văn học vì gắn liền với sự ra đời của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc-tác phẩm đã đưa Nguyễn Đình Chiểu lên vị trí hàng đầu của các tác giả yêu nước nửa sau thế kỷ XIX.

Ở đó, lần đầu tiên trong văn học thành văn Việt Nam, hình ảnh người nông dân-chiến sĩ, người cố nông, bần nông-nghĩa sĩ được công khai vẽ lên và được ngợi ca với hình ảnh người anh hùng "chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm dân chiêu mộ". Vốn quanh năm "côi cút làm ăn, toan lo nghèo

khó", bên trong lũy tre làng, "chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ", thành thục với "việc cuốc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm", nhưng khi "mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm", họ sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả. Dẫu "chẳng quen cung ngựa...", nhưng với tinh thần "thà thác mà đặng câu địch khái..., hơn sống mà chịu chữ đầu Tây ...", trước thế giặc "bòng bong che trắng lớp", "ống khối chạy đen sì"..., người "Nghĩa sĩ Cần Giuộc" "chi nài sắm dao tu nón gõ", cũng chẳng đợi "ai đòi, ai bắt...", chỉ với "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi...","gươm đao dùng một lưỡi dao phay..." đã không nệ hà "trống kỳ trống giục...", cũng chẳng sợ "thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to", vẫn "đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không", "chém rơi đầu quan hai nọ", "làm cho Mã tà, Ma ní phải hồn kinh"..., dù "một trận khói tan" nhưng "ngàn thu tiết rỡ"... Bằng sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục, tinh thần quả cảm và sự hy sinh cao cả của "Nghĩa sĩ Cần Giuộc" trong bối cảnh nước mất nhà tan đã được Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc với hình tượng thật bi tráng, đầy sức nặng của một thời đại "nước mắt anh hùng lau chẳng ráo", thật sự là "những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang" (Phạm Văn Đồng). Giáo sư-Nhà giáo nhân dân Trần Văn Giàu đã thổ lộ: " ... Thật suốt hàng ngàn năm sáng tác cho đến đấy và còn lâu về sau nữa, chưa có một thi nhân nào rung cảm chân thành và sâu sắc với dân cày như thầy Nguyễn Đình Chiểu của chúng ta. Chưa có ai như Nguyễn Đình Chiểu đắp nên tượng lộng lẫy của người nông dân anh hùng cứu nước...!".

Với Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc, hình tượng "Nghĩa sĩ Cần Giuộc" được tạc vào không gian lẫn thời gian như một tượng đài bi tráng, sừng sững với khí phách hiên ngang, tinh thần bất khuất và sự hy sinh cao cả để nói với muôn đời rằng:

"Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm sáu tỉnh chúng đều khen.

Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ".

3. Đến công trình văn hóa hôm nay

"Nghĩa sĩ Cần Giuộc" đã trở thành tượng đài bi tráng, tiêu biểu cho lòng yêu nước, sự hy sinh và khí phách anh hùng của người nông dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do vậy đã sống mãi trong lòng dân tộc. Với nhân dân Long An, đó là sự khởi đầu oanh liệt của truyền thống "trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc", và là niềm tin, động lực cho tương lai trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Từ nhận thức ấy, ý tưởng xây dựng tượng đài "Nghĩa sĩ Cần Giuộc" tại huyện Cần Giuộc để tôn vinh giá trị của tiền nhân đã được hình thành và bắt đầu được cụ thể hóa từ năm 2008. Tại Công văn số 1097-CV/VPTU ngày 24-6-2008, Tỉnh ủy đã chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện Cần Giuộc phối hợp với các ngành lập dự án xây dựng công trình tại trung tâm thị trấn Cần Giuộc. Ngày 13-10-2011, Ủy ban nhân dân tỉnh đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình "Khu Tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc" với diện tích khoảng 1.800m2. Đó là một tổng thể gồm 2 phần: Phần hạ tầng kỹ thuật gồm các hạng mục như sân đường, hàng rào, cây xanh-thảm cỏ, hồ phun nước, điện chiếu sáng..., do Trung tâm Qui hoạch Xây dựng, Sở Xây dựng tỉnh Long An thiết kế. Phần đài biểu tượng và nhóm tượng do nhà điêu khắc Phan Gia Hương thể hiện, hiện đã được Hội đồng nghệ thuật tỉnh duyệt phác thảo mẫu và cho phép tác giả tiếp tục công đoạn phóng to theo tỉ lệ thật để tiếp tục trình Hội đồng quyết định trước khi chuyển sang công đoạn thể hiện bằng đá granit theo thiết kế. Về ý tưởng nghệ thuật của tác phẩm, bước đầu tác giả cho biết, với kích thước 9,5m cao x 9m dài x 4,5 m rộng, đài tượng là hình ảnh 3 cụm dừa nước hình chân vạc thể hiện sự vững chãi, tượng trưng cho hào khí Nam Bộ, có thiết kế phần khắc vào đá nội dung bài Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhóm tượng với hình tượng con người cao 2,7 m và những đường nét tượng trưng sẽ thể hiện khái quát cảnh quan đồng bằng Nam Bộ và miêu tả trận chiến đấu và hy sinh của "Nghĩa sĩ Cần Giuộc" theo tinh thần tác phẩm Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Từ ý tưởng đến hiện thực cũng như để công trình tôn vinh này tương xứng với tầm vóc của sự kiện đã đi vào lịch sử và văn học dân tộc là cả một quá trình, đòi hỏi sự nỗ lực đóng góp trí tuệ và công sức của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân. Nhưng có thể khẳng định rằng, đây thực sự là biểu hiện của tấm lòng trân trọng, thiết tha với di sản tinh thần thiêng liêng của cha ông và là hành động thiết thực của thế hệ hôm nay trong việc kế thừa và phát huy sức mạnh từ quá khứ để tạo nền tảng tinh thần vững chắc, làm động lực góp phần phát triển kinh tế-xã hội cho quê hương Long An trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

 

 

TRANG TTĐT THỊ TRẤN CẦN GIUỘC - HUYỆN CẦN GIUỘC

Cơ quan chủ quản: UỶ BAN NHÂN DÂN THỊ TRẤN CẦN GIUỘC
Chịu trách nhiệm nội dung: Đặng Thị Mai Hồng - Chức vụ: Phó chủ tịch UBND thị trấn
Địa chỉ : Khu phố Trị Yên, thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An
Điện thoại: 0985349325  - Email:  ttcangiuocit@gmail.com